Trọng số là gì? Các công bố khoa học về Trọng số
Trọng số là một giá trị được gán cho mỗi phần tử trong một tập hợp để biểu thị mức độ quan trọng của phần tử đó. Trọng số thường được sử dụng trong các bài toán...
Trọng số là một giá trị được gán cho mỗi phần tử trong một tập hợp để biểu thị mức độ quan trọng của phần tử đó. Trọng số thường được sử dụng trong các bài toán định lượng, như tối ưu hóa, tính toán khoảng cách, xếp hạng và phân loại. Trong bối cảnh này, trọng số thể hiện mức độ ảnh hưởng mà mỗi phần tử có đối với kết quả cuối cùng. Thông qua việc gán trọng số, chúng ta có thể điều chỉnh tầm quan trọng của các phần tử khác nhau và ảnh hưởng đến quá trình quyết định.
Trong các bài toán định lượng, trọng số có thể được sử dụng để đánh giá mức độ quan trọng của các yếu tố hoặc biến đối với kết quả cuối cùng. Trọng số thể hiện mức độ ảnh hưởng của các yếu tố đối với quá trình hoặc mục tiêu cần đạt được.
Ví dụ, trong bài toán tối ưu hóa, chúng ta có thể gán trọng số cho các biến để xác định tầm quan trọng của từng biến trong việc đạt được mục tiêu tối ưu. Trọng số làm nổi bật những biến có sự ảnh hưởng lớn đối với mục tiêu và giúp làm rõ các yếu tố quan trọng nhất cần được tập trung.
Trọng số cũng được sử dụng trong việc tính toán khoảng cách giữa các điểm dữ liệu trong các bài toán gom cụm hay phân loại. Các điểm dữ liệu có trọng số cao sẽ có ảnh hưởng mạnh đến việc xác định trung tâm hay phân loại của các nhóm.
Ngoài ra, trọng số còn được áp dụng trong việc xếp hạng và đánh giá. Với trọng số, ta có thể xem xét mức độ quan trọng của các phần tử và đánh giá chất lượng dựa trên các yếu tố quan trọng đó. Ví dụ, trong hệ thống xếp hạng sản phẩm, trọng số có thể được áp dụng để làm nổi bật những yếu tố quan trọng như đánh giá của khách hàng, độ tin cậy, hoặc mức độ hài lòng của người dùng.
Trọng số có thể được gán theo nhiều cách khác nhau, như đánh giá chủ quan của chuyên gia, phân tích dữ liệu hoặc sử dụng các thuật toán để tìm ra trọng số tốt nhất dựa trên thông tin có sẵn. Quá trình gán trọng số phụ thuộc vào bài toán cụ thể và mục tiêu của nó.
Trọng số có thể được sử dụng trong nhiều lĩnh vực khác nhau và có nhiều phương pháp khác nhau để gán trọng số. Dưới đây là một số ví dụ về việc áp dụng trọng số:
1. Trọng số trong bài toán tối ưu hóa: Trong các bài toán tối ưu hóa, chúng ta có thể gán trọng số cho các biến để xác định tầm quan trọng của từng biến trong việc đạt được mục tiêu tối ưu. Các biến có trọng số cao có ảnh hưởng mạnh đến kết quả tối ưu.
2. Trọng số trong tính toán khoảng cách: Trong các bài toán gom cụm hay phân loại, trọng số có thể được sử dụng để tính toán khoảng cách giữa các điểm dữ liệu. Các điểm dữ liệu có trọng số cao sẽ có ảnh hưởng lớn đến quá trình xác định trung tâm của các nhóm hoặc quá trình phân loại.
3. Trọng số trong xếp hạng và đánh giá: Trọng số có thể được sử dụng để xác định mức độ ảnh hưởng của các yếu tố trong việc xếp hạng và đánh giá. Ví dụ, trong việc xếp hạng sản phẩm, chúng ta có thể gán trọng số cho các yếu tố quan trọng như đánh giá của khách hàng, độ tin cậy, hoặc mức độ hài lòng của người dùng để đánh giá chất lượng sản phẩm.
4. Trọng số trong phân tích dữ liệu: Trong các phương pháp phân tích dữ liệu như PCA (Phân tích thành phần chính) hay LDA (Phân tích đa biến), trọng số có thể được sử dụng để tăng cường đóng góp của một số biến lên các thành phần chính hoặc đa biến quan trọng.
Trọng số có thể được gán theo nhiều cách khác nhau, tùy thuộc vào bài toán cụ thể và mục tiêu của nó. Các cách gán trọng số có thể dựa trên đánh giá chủ quan của chuyên gia, phân tích dữ liệu, hoặc sử dụng các thuật toán để tìm ra trọng số tối ưu dựa trên thông tin có sẵn.
Danh sách công bố khoa học về chủ đề "trọng số":
Một số nghiên cứu gần đây đã tập trung vào các thuộc tính thống kê của các hệ thống mạng như mạng xã hội và Mạng toàn cầu. Các nhà nghiên cứu đặc biệt chú ý đến một vài thuộc tính dường như phổ biến ở nhiều mạng: thuộc tính thế giới nhỏ, phân phối bậc theo luật công suất, và tính chuyển tiếp của mạng. Trong bài báo này, chúng tôi làm nổi bật một thuộc tính khác được tìm thấy trong nhiều mạng, đó là thuộc tính cấu trúc cộng đồng, trong đó các nút mạng được kết nối với nhau thành các nhóm chặt chẽ, giữa các nhóm đó có chỉ những kết nối lỏng lẻo hơn. Chúng tôi đề xuất một phương pháp để phát hiện các cộng đồng như vậy, được xây dựng dựa trên ý tưởng sử dụng các chỉ số trung tâm để tìm ranh giới cộng đồng. Chúng tôi thử nghiệm phương pháp của mình trên các đồ thị do máy tính tạo ra và các đồ thị trong thế giới thực, có cấu trúc cộng đồng đã biết và phát hiện rằng phương pháp này phát hiện cấu trúc đã biết này với độ nhạy và độ tin cậy cao. Chúng tôi cũng áp dụng phương pháp này cho hai mạng có cấu trúc cộng đồng chưa được biết rõ—mạng hợp tác và mạng thức ăn—và thấy rằng nó phát hiện các phân chia cộng đồng quan trọng và có thông tin ở cả hai trường hợp.
Tóm tắt: GenAlEx: Phân tích di truyền trong Excel là một gói phần mềm đa nền tảng cho các phân tích di truyền quần thể chạy trong Microsoft Excel. GenAlEx cung cấp phân tích các loci gen diploid đồng trội, haploid và nhị phân cùng với các chuỗi DNA. Cả phân tích dựa trên tần suất (F-statistics, độ đa dạng dị hợp tử, HWE, phân loại quần thể, mối quan hệ) và phân tích dựa trên khoảng cách (AMOVA, PCoA, kiểm định Mantel, phân tích tự tương quan không gian đa biến) đều được cung cấp. Các tính năng mới bao gồm tính toán các ước lượng mới về cấu trúc quần thể: G′ST, G′′ST, Jost’s Dest và F′ST qua AMOVA, phân tích thông tin Shannon, phân tích sự cân bằng liên kết cho dữ liệu biallelic và các kiểm định không đồng nhất mới cho phân tích tự tương quan không gian. Hỗ trợ xuất ra hơn 30 định dạng dữ liệu khác nhau. Các bài giảng giảng dạy và tùy chọn xuất kết quả mở rộng từng bước cũng được bao gồm. Hướng dẫn toàn diện đã được sửa đổi hoàn toàn.
Sự sẵn có và triển khai: GenAlEx được viết bằng VBA và được cung cấp dưới dạng tiện ích bổ sung cho Microsoft Excel (tương thích với Excel 2003, 2007, 2010 trên PC; Excel 2004, 2011 trên Macintosh). GenAlEx, tài liệu hỗ trợ và các bài giảng giảng dạy có sẵn miễn phí tại: http://biology.anu.edu.au/GenAlEx.
Liên hệ: [email protected]
Nền tảng: Dịch bệnh vi-rút corona 2019 (COVID-19) là một tình trạng khẩn cấp về sức khỏe cộng đồng mang tính quốc tế và đặt ra thách thức cho khả năng phục hồi tâm lý. Cần có dữ liệu nghiên cứu để phát triển các chiến lược dựa trên bằng chứng nhằm giảm thiểu các tác động tâm lý bất lợi và triệu chứng tâm thần trong suốt dịch bệnh. Mục tiêu của nghiên cứu này là khảo sát công chúng tại Trung Quốc để hiểu rõ hơn mức độ tác động tâm lý, lo âu, trầm cảm và căng thẳng của họ trong giai đoạn đầu của dịch bệnh COVID-19 bùng phát. Dữ liệu này sẽ được sử dụng làm tài liệu tham khảo cho tương lai. Phương pháp: Từ ngày 31 tháng 1 đến ngày 2 tháng 2 năm 2020, chúng tôi đã thực hiện một cuộc khảo sát trực tuyến sử dụng kỹ thuật lấy mẫu quả cầu tuyết. Cuộc khảo sát trực tuyến thu thập thông tin về dữ liệu nhân khẩu học, các triệu chứng thể chất trong vòng 14 ngày qua, lịch sử tiếp xúc với COVID-19, hiểu biết và lo lắng về COVID-19, các biện pháp phòng ngừa COVID-19 và thông tin bổ sung cần có liên quan đến COVID-19. Tác động tâm lý được đánh giá bằng thang đo Impact of Event Scale-Revised (IES-R), và trạng thái sức khỏe tâm thần được đánh giá bằng thang đo Depression, Anxiety and Stress Scale (DASS-21). Kết quả: Nghiên cứu này bao gồm 1210 người tham gia từ 194 thành phố tại Trung Quốc. Tổng cộng, 53.8% người tham gia đánh giá tác động tâm lý của đợt bùng phát là trung bình hoặc nghiêm trọng; 16.5% báo cáo triệu chứng trầm cảm từ trung bình đến nghiêm trọng; 28.8% báo cáo triệu chứng lo âu từ trung bình đến nghiêm trọng; và 8.1% báo cáo mức độ căng thẳng trung bình đến nghiêm trọng. Hầu hết những người tham gia dành từ 20 đến 24 giờ mỗi ngày tại nhà (84.7%); lo lắng về việc thành viên gia đình bị nhiễm COVID-19 (75.2%); và hài lòng với lượng thông tin sức khỏe có sẵn (75.1%). Giới tính nữ, là sinh viên, có các triệu chứng thể chất cụ thể (ví dụ, nhức mỏi, chóng mặt, nghẹt mũi), và tình trạng sức khỏe tự đánh giá kém có mối liên hệ đáng kể với tác động tâm lý lớn hơn của đợt bùng phát và mức độ căng thẳng, lo âu và trầm cảm cao hơn (p < 0.05). Thông tin sức khỏe cập nhật và chính xác (ví dụ, điều trị, tình hình bùng phát cục bộ) và các biện pháp phòng ngừa cụ thể (ví dụ, vệ sinh tay, đeo khẩu trang) có liên quan đến tác động tâm lý thấp hơn của đợt bùng phát và mức độ căng thẳng, lo âu và trầm cảm thấp hơn (p < 0.05). Kết luận: Trong giai đoạn đầu của sự bùng phát dịch COVID-19 tại Trung Quốc, hơn một nửa số người tham gia đánh giá tác động tâm lý là từ trung bình đến nghiêm trọng, và khoảng một phần ba báo cáo lo âu từ mức trung bình đến nghiêm trọng. Phát hiện của chúng tôi xác định các yếu tố liên quan đến mức độ tác động tâm lý thấp hơn và trạng thái sức khỏe tâm thần tốt hơn có thể được sử dụng để xây dựng các can thiệp tâm lý nhằm cải thiện sức khỏe tâm thần của các nhóm dễ bị tổn thương trong thời kỳ dịch COVID-19.
Một phương pháp kiểm tra đất DTPA đã được phát triển để nhận diện các loại đất gần trung tính và đất vôi có hàm lượng Zn, Fe, Mn, hoặc Cu không đủ cho năng suất cây trồng tối đa. Chất triết suất gồm 0.005
Phương pháp kiểm tra đất đã phân biệt thành công 77 loại đất ở Colorado dựa trên sự phản ứng của cây trồng với phân bón kẽm, sắt và mangan. Mức độ dinh dưỡng quan trọng phải được xác định riêng biệt cho từng loại cây trồng sử dụng quy trình tiêu chuẩn hóa cho việc chuẩn bị đất, nghiền và triết suất. Các mức độ quan trọng cho ngô sử dụng quy trình báo cáo trong nghiên cứu này là: 0.8 ppm cho Zn, 4.5 ppm cho Fe, tạm thời 1.0 ppm cho Mn, và 0.2 ppm cho Cu.
Việc phát triển phương pháp kiểm tra đất một phần dựa trên các cân nhắc lý thuyết. Chất triết suất được đệm tại pH 7.30 và chứa CaCl2 để cân bằng với CaCO3 tại mức CO2 cao hơn khoảng 10 lần so với mức trong không khí. Nhờ đó, chất triết suất tránh việc hòa tan CaCO3 và phát thải các dưỡng chất bị mắc kẹt thường không có sẵn cho cây trồng. DTPA được chọn làm chất tạo phức vì có khả năng hiệu quả chiết xuất cả bốn kim loại vi lượng. Các yếu tố như pH, nồng độ chất tạo phức, thời gian lắc, và nhiệt độ triết suất ảnh hưởng đến lượng vi lượng được chiết xuất và được điều chỉnh để đạt hiệu quả tối đa.
Bệnh Parkinson (PD) là một rối loạn thần kinh thoái hóa phổ biến với tỷ lệ mắc cả đời khoảng 2 phần trăm. Một mẫu gia tăng phát tích trong gia đình đã được ghi nhận đối với rối loạn và gần đây đã có báo cáo rằng một gen gây nhạy cảm với PD trong một gia đình lớn ở Ý được định vị trên cánh dài của nhiễm sắc thể số 4 của người. Một đột biến đã được xác định trong gen α-synuclein, mã hóa cho một protein tiền synapse được cho là có liên quan đến tính dẻo thần kinh, trong gia đình Ý và ba gia đình không có quan hệ quen biết có nguồn gốc Hy Lạp với di truyền trội trên nhiễm sắc thể thường đối với kiểu hình PD. Phát hiện này về một thay đổi phân tử cụ thể liên quan đến PD sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho việc hiểu chi tiết cơ chế bệnh sinh của rối loạn này.
Một biến thể mới tên là ‘PMF’ trong phân tích yếu tố được mô tả. Giả định rằng
Chúng tôi được cung cấp một cơ sở dữ liệu lớn về các giao dịch của khách hàng. Mỗi giao dịch bao gồm các mặt hàng mà một khách hàng đã mua trong một lần ghé thăm. Chúng tôi giới thiệu một thuật toán hiệu quả để sinh ra tất cả các quy tắc liên kết đáng kể giữa các mặt hàng trong cơ sở dữ liệu. Thuật toán này tích hợp quản lý bộ đệm và các kỹ thuật ước lượng và cắt tỉa mới. Chúng tôi cũng trình bày kết quả áp dụng thuật toán này cho dữ liệu bán hàng thu được từ một công ty bán lẻ lớn, cho thấy hiệu quả của thuật toán.
Chúng tôi đã phân tích các yếu tố khí hậu và kết cấu ảnh hưởng đến carbon hữu cơ (C) và nitơ (N) trong đất tại vùng Đại Bình nguyên của Hoa Kỳ. Chúng tôi đã sử dụng một mô hình về số lượng và thành phần chất hữu cơ trong đất (SOM) để mô phỏng mức độ chất hữu cơ ổn định tại 24 địa điểm đồng cỏ trong khu vực này. Mô hình có khả năng mô phỏng tác động của các gradient khí hậu đến SOM và năng suất. Kết cấu đất cũng là một yếu tố kiểm soát quan trọng đối với động lực học của chất hữu cơ. Mô hình đã dự đoán một cách chính xác sản lượng thực vật trên mặt đất cũng như mức độ C và N trong đất qua các loại kết cấu đất (cát, trung bình và mịn); tuy nhiên, mô hình có xu hướng đánh giá quá mức mức độ C và N trong đất thuộc loại kết cấu mịn từ 10 đến 15%. Tác động của việc chăn thả đối với hệ thống đã được mô phỏng và cho thấy rằng các mức C và N trong đất ổn định nhạy cảm với cường độ chăn thả, với mức C và N trong đất giảm khi tần suất chăn thả tăng lên. Các xu hướng vùng trong SOM có thể được dự đoán bằng bốn biến cụ thể cho địa điểm, bao gồm nhiệt độ, độ ẩm, kết cấu đất và hàm lượng lignin trong thực vật. Các đầu vào nitơ cũng cần phải được xác định. Cường độ chăn thả trong quá trình phát triển đất cũng là một yếu tố kiểm soát quan trọng đối với các mức SOM ổn định, và do ít dữ liệu có sẵn về việc chăn thả trước khi định cư, một số sự không chắc chắn là bất khả kháng trong các dự đoán của mô hình.
Các đợt hạn hán nghiêm trọng đã liên quan đến hiện tượng tử vong của rừng ở quy mô vùng trên toàn thế giới. Biến đổi khí hậu dự kiến sẽ làm trầm trọng thêm các sự kiện tử vong cấp vùng; tuy nhiên, việc dự đoán vẫn rất khó khăn vì các cơ chế sinh lý bình luận về khả năng sống sót và tử vong do hạn hán vẫn chưa được hiểu rõ. Chúng tôi đã phát triển một lý thuyết dựa trên áp suất thủy lực, xem xét cân bằng carbon và khả năng kháng côn trùng để phát triển và kiểm tra các giả thuyết liên quan đến sự sống sót và tử vong. Nhiều cơ chế có thể gây ra tử vong trong thời gian hạn hán. Một cơ chế chung cho các loài thực vật có quy định nước isohydric là tránh khỏi sự thất bại thủy lực do hạn hán thông qua việc đóng khí khổng, dẫn đến tình trạng đói carbon và chuỗi các tác động tiếp theo như khả năng kháng với các tác nhân sinh học giảm sút. Tử vong do thất bại thủy lực
- 1
- 2
- 3
- 4
- 5
- 6
- 10